Ô nhiễm nguồn nước - Quy định nhiều, trách nhiệm chưa rõ
Cảnh báo mới đây của các chuyên gia về môi trường tại Diễn đàn quốc gia về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước cho thấy: Nguồn nước của Việt Nam đang bị suy thoái nghiêm trọng, ở nhiều vùng bị ô nhiễm nặng không thể kiểm soát; nhiều con sông, đoạn sông đang “chết” dần… Một câu hỏi đặt ra: Phải chăng các quy định về lĩnh vực này chưa đủ mạnh?
Không kiểm soát được ô nhiễm
Thiệt hại kinh tế do ô nhiễm nước trong gần 10 năm qua (2008 - 2017), theo sơ bộ tính vào khoảng hơn 11.6000 tỷ đồng.
|
Thống kê của Bộ TN và MT cho thấy, Việt Nam hiện có 3.450 sông, suối có chiều dài từ 10km trở lên. Tổng lượng nước mặt khoảng 830 tỷ mét khối tập trung ở 8 lưu vực sông lớn gồm sông Hồng - Thái Bình, Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Cả, Vu Gia - Thu Bồn, Ba, Đồng Nai và sông Me Kong. Với trữ lượng nước như vậy, Việt Nam được cho là nước có tài nguyên nước thuộc loại trung bình trên thế giới, song ô nhiễm và suy thoái chất lượng nước đã và đang xảy ra ở nhiều đoạn sông, tập trung phần lớn ở vùng trung lưu và hạ lưu (đoạn chảy qua khu vực đô thị, khu công nghiệp, làng nghề). Nhiều con sông, suối, đoạn sông đang “chết” dần vì ô nhiễm; nước trong nhiều ao, hồ tại các làng nghề bị ô nhiễm nặng có nguy cơ không thể kiểm soát…

Kênh L1 làng nghề Triều Khúc, Thanh Trì, Hà Nội bị ô nhiễm
Đơn cử, trạm quan trắc nước xuyên biên giới trên sông Hồng tại Lào Cai thường xuyên ghi nhận hàm lượng Amoni và phốt phát cao hơn các điểm khác trên khu vực thượng nguồn. Tại lưu vực sông Cầu, nhiều đoạn qua Bắc Giang - Bắc Ninh chất lượng nước kém; tại sông Ngũ Huyện Khê - một trong những con sông có mức độ ô nhiễm khá nghiêm trọng. Còn tại lưu vực sông Nhuệ, Đáy tại các đoạn chảy qua các đô thị và khu vực tập trung sản xuất vẫn tiếp tục bị ô nhiễm chất hữu cơ và vi sinh; các sông nội thành Hà Nội như sông Lừ, Sét, Kim Ngưu, môi trường nước cũng luôn ở mức ô nhiễm nặng và không có cải thiện theo thời gian…
Tương tự, các sông, kênh, mương, ao hồ tại hầu hết các làng nghề hiện nay cũng rơi vào tình “chết” bởi nguồn nước không còn giá trị sử dụng do ô nhiễm không thể kiểm soát. Đơn cử, làng nghề đúc nhôm Bình Yên (Nam Trực, Nam Định), với lượng chất thải ra môi trường quá lớn (500m3/ngày), nơi đây đang phải đối mặt với ô nhiễm nước thải nặng nề từ chính hoạt động sản xuất. Từ nhiều năm trở lại đây, nhiều hecta đất nông nghiệp của thôn Bình Yên bị bỏ không vì không thể cấy lúa do toàn bộ hệ thống nước mặt của thôn bị ô nhiễm nặng, không thể sử dụng…
Chính sách chồng chéo
Có thể thấy, vấn đề ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nước đã được thể chế hóa tại nhiều văn bản pháp luật của Nhà nước, trong đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 quy định các điều khoản về quản lý chất lượng nước, bảo vệ môi trường nước sông; Luật Tài nguyên nước 2012 cũng có một số quy định chi tiết về bảo vệ tài nguyên nước thống nhất với Luật Bảo vệ môi trường, cụ thể hóa các quy định về quản lý lưu vực sông, phòng chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt và ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước lưu vực sông. Ngoài ra, còn một loạt các văn bản dưới luật như nghị định, thông tư cũng quy định về giấy phép xả thải, thanh tra, kiểm tra, quan trắc giám sát; giám sát cộng đồng về tài nguyên nước, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước… Tuy nhiên, hệ thống quản lý ô nhiễm nước hiện nay gần như bị vô hiệu hóa, ô nhiễm nước vượt tầm kiểm soát.
Dẫn chứng về việc các quy định về ngăn ngừa, kiểm soát ô nhiễm nước còn chồng chéo, thiếu tính thực thi, chưa đầy đủ, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu môi trường và cộng đồng Nguyễn Ngọc Lý cho rằng: những quy định liên quan trong Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi cũng như Luật Tài nguyên nước vẫn chung chung, chưa xác định rõ trách nhiệm. Nguyên nhân là do Luật Tài nguyên nước chủ yếu đề cập đến nguồn nước như một tài nguyên quốc gia, còn Luật Bảo vệ môi trường (2005 và sửa đổi 2014) mang tính chất là luật khung, do vậy chưa thể chứa đựng đầy đủ nội dung cần thiết về ngăn ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm. Đó là chưa kể trong Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi, các nội dung liên quan đến ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nước còn nằm rải rác trong các chương, điều, chưa có điều kiện thể hiện liền mạch và liên thông nên các cơ quan quản lý và các đối tác tham gia bảo vệ môi trường nước chưa các định được rõ ràng nhiệm vụ phải thực hiện…
Trước thực trạng trên, để khắc phục cũng như dần kiểm soát tình trạng ô nhiễm nước nghiêm trọng hiện nay, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực tài nguyên môi trường cho rằng: cần tiếp tục hoàn thiện chính sách pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nước. Cụ thể, cần xây dựng Luật Kiểm soát ô nhiễm, có các chính sách ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu khoa học và công nghệ xử lý nước thải, phát triển ngành công nghệ xử lý và đào tạo các kỹ sư, các nhà công nghệ bậc cao về việc xử lý ô nhiễm nước, có chính sách chiến lược thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xử lý nước thải.
Hải Thanh Nguồn:
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=74&NewsId=399576
http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=74&NewsId=399576
Không có nhận xét nào